Võ Thiếu Lâm hay
Thiếu Lâm Quyền,
Thiếu Lâm Công Phu là một môn võ thuật cổ truyền của
Trung Quốc.
Nguồn gốc và danh xưngNgười Trung Hoa thường phân loại các môn võ của họ thành hai loại với tên gọi khác nhau. Môn võ vật thì gọi là
Giốc Để, còn võ
quyền cước (đánh đá chân tay) gọi là
Thủ Bác, mà bây giờ chúng ta gọi là quyền thuật
(boxing). Sau này người Trung Hoa gọi các môn võ chân tay (hay quyền thuật) của họ là
Kỹ kích hay
Kỹ pháp.
[1]
- Tên khác của Thiếu Lâm Quyền: Thiếu Lâm công phu. Người Quảng Đông thì lại gọi các môn võ thuật có nguồn gốc từ Thiếu Lâm là Kungfu hay Gongfu (phiên âm Hán-Việt:
Công Phu) và mang nó đi truyền bá khắp bên ngoài Trung Hoa Đại Lục nên
người phương Tây gọi võ Trung Hoa là Kungfu, và các môn quyền thuật (boxing) (tiếng Nhật đọc là Kempo hay Kenpo) và công phu xuất phát từ chùa Thiếu Lâm thì gọi là Thiếu Lâm công phu (Shaolin là phiên âm latinh từ tiếng phổ thông, còn tiếng Quảng Đông đọc là "Sỉu Lầm" - viết là Silum) hoặc là Thiếu Lâm võ thuật. Trong khi tiếng Nhật thì cũng có một cách đọc na ná âm tiết là Shorin (Shaolin) và Ji (Sì). Do vậy, môn Karate (Không Thủ Đạo) ở Nhật còn có một tên gọi khác nữa là Shorin Ji Kempo nghĩa là Quyền Pháp Thiếu Lâm tự của Nhật Bản (xem mục Liên kết ngoài-Tham khảo phía dưới bài này).
Năm 1945, nước Nhật bại trận sau thế chiến thứ hai và trở nên kiệt quệ hoàn toàn.
Kaiso (So Doshin) hiểu rõ thế nào là cảm giác bị đánh bại và đó là một phần lý do khiến
ông sáng lập ra Shorinji Kempo. Kaiso (So Doshin) đã phát triển các kỹ
thuật của Thiếu Lâm tự
Trung Quốc và tập hợp lại thành hệ thống kỹ thuật
Thiếu Lâm tự Nhật Bản.
Ông
(Kaiso (So Doshin)) đã từng nói: "Tôi đã tận mắt chứng kiến thực trạng chính trị quốc tiếm
khi mà sức mạnh dường như là công lý duy nhất tồn tại, những mối quan
tâm quốc gia xâm chiếm cả tư tưởng, tôn giáo và đạo đức..." "Cách nhìn
của tôi với thế giới thay đổi. Tôi hướng tới một mục tiêu cho cách sống
mới của mình: Con người. Mọi thứ đều phụ thuộc vào giá trị của con
người."
Khi nói chùa Thiếu Lâm mà công chúng xưa nay thường biết đến chính là chùa Thiếu Lâm ở tại dãy núi
Tung Sơn (huyện
Đăng Phong, tỉnh
Hà Nam (Trung Quốc)) là thủy tổ của các môn phái võ Trung Hoa.
Còn các võ phái bên ngoài Trung Hoa Đại Lục trong vùng Đông Á (bán
đảo Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, ...) thì lại có nguồn gốc từ
Nam Thiếu Lâm và
Bắc Thiếu Lâm.
Vị sư trưởng (tục gọi là Phương Trượng) hiện nay (2007) trụ trì tại
chùa Thiếu Lâm (Đăng Phong, Hà Nam) là vị hòa thượng pháp danh Thích
Vĩnh Tín (sinh năm 1965).
Sau khi vị hòa thượng này lên quản nhiệm ngôi chùa đã cho thành lập
Công ty Thiếu Lâm tự và đăng ký bản quyền thương hiệu cho võ công Thiếu Lâm tại
Trung Hoa và tại Cơ Quan Văn Hóa (của) Liên Hiệp Quốc (
UNESCO) nhằm tránh nạn
"ăn cắp bản quyền sáng chế" và cũng để hạn chế những ngụy phái dám giả mạo xưng danh là môn đồ của
Thiếu Lâm tự làm điều càn rỡ phương hại đến uy danh và văn hóa Thiếu Lâm
tự, mà nạn phổ biến nhất là việc sáng tác bừa bãi các bài quyền và các
kỹ thuật công phu không đúng với
tông pháp nguyên ủy của võ công Thiếu Lâm. Lịch sử võ công Thiếu Lâm cũng đã là minh chứng cho thấy sự mâu thuẫn về đường lối của
Nam Thiếu Lâm và
Bắc Thiếu Lâm với Thiếu Lâm
Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) và cuối cùng Thiếu Lâm
Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) cũng phải thừa nhận vị trí của
Bắc Thiếu Lâm (
Sơn Đông,
Hà Bắc (Trung Quốc)) và
Nam Thiếu Lâm (
Toàn Châu,
Phúc Kiến) trong một hệ thống
Thiếu Lâm quyền.
Hơn nữa, vị phương trượng này - Thích Vĩnh Tín - cũng muốn chấn hưng lại danh tiếng văn hóa
Thiền Tông Thiếu Lâm tự là cái nôi của Thiền Tông thế giới cũng như khẳng
định lại vị trí đặc biệt của Thiền trong võ công Thiếu Lâm từ nguyên
thủy của nó, ông đã phát biểu trong lời tựa các ấn phẩm võ công do chính
nhà chùa xuất bản hiện nay:
"nhà chùa nhờ có võ công mà nổi tiếng, ngược lại võ công của Thiếu Lâm cũng nhờ chùa mà trở nên phát triển" cho nên tại chùa Thiếu Lâm và ở Trung Hoa xưa nay thường hay có câu truyền tụng
"Thiền Quyền nhất thể" là như vậy.
Lịch sử chùa Thiếu LâmChùa Thiếu Lâm, theo như trong các tài liệu khảo sát bằng văn bản của
Dương Huyễn Chi, trong "Lạc Dương Già-lam kí" (洛陽伽藍記; 547), và
Lý Hiền (李賢), trong "Minh nhất thống chí (明一統志; 1461), cũng công nhận vị trí và
thời đại của ngôi chùa như Đạo Tuyên trong "Tục cao tăng truyện" (续高僧传,
645). Quyển "Gia Khánh trùng tu nhất thống chí" (嘉慶重修一統志; 1843) viết
rằng ngôi chùa ở tỉnh Hà Nam, được xây dựng vào năm Thái Hòa (太和) thứ 20
nhà Bắc Ngụy (tức năm 497), là ngôi chùa Thiếu Lâm ở huyện Đăng Phong
(Dangfeng 登封), tỉnh Hà Nam (Henan 河南) (có sách viết là Hồ Nam là không
đúng vì tỉnh Hồ Nam rất xa về phía Nam tỉnh Hà Nam), Trung Quốc, cách
Bắc Kinh 600 km về phía Nam và cách Nam Kinh 600 km về phía Tây. Ngôi
chùa bị hủy diệt và trùng tu vài lần, trở thành một trong những ngôi
chùa xưa nhất của Trung Quốc.
Theo "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645) của
Đạo Tuyên ngôi chùa này ban đầu được Hiếu Văn Đế (孝文帝)(471-499) triều Bắc Ngụy
(386-534) xây dựng vào năm 497 ở phía bắc ngọn núi Thiếu Thất (Shaoshi
少室山), trong dãy
Tung Sơn (
Songshan 嵩山), huyện Đăng Phong (
Dengfeng 登封), thuộc tỉnh
Hà Nam (
Henan 河南) về hướng Tây Bắc gần thành phố
Trịnh Châu (Giản thể: 郑州, Phồn thể: 鄭州; Bính âm: Zhèngzhōu) (là một trong năm ngọn núi danh thắng của Trung Quốc là
Hoa sơn,
Thái sơn,
Hằng sơn,
Hành sơn và
Tung sơn) cho nhà sư
Bạt Đà (
Bá Tuó 跋陀), đến Trung Hoa vào năm 464, người đã thuyết giảng
Bộ kinh Phật giáo ở Trung Quốc trong vòng ba thập kỷ.Nhưng lịch sử chùa Thiếu Lâm chỉ bắt đầu được biết đến nhiều sau khi vị Phật tăng
Ấn Độ là
Bồ Đề Đạt Ma (phiên âm tiếng
Trung Quốc của tên
Ấn Độ Puti Damo 菩 提 達 摩
, Bodhidharma) từ
Ấn Độ (năm 518 Tây lịch) đến
Trung Hoa truyền thụ giáo pháp
Phật Giáo đồng thời sáng lập nên một giáo phái
Phật giáo mới sau này phát triển khắp vùng Đông Nam Á, bán đảo
Triều Tiên và
Nhật Bản là giáo phái
Thiền Tông Trung Hoa. Ở
Nhật Bản, tinh thần của
Thiền (Zen) đã thấm đẫm văn hóa truyền thống của người Nhật qua các nghi thức
trà đạo và các môn võ sau này.
Kỹ năng môn phái Thiếu LâmThiếu Lâm Phái được khai sáng bởi Đạt Ma Sư Tổ đến từ Tây Trúc được xem là đại diện cho “Võ Lâm Chính phái”.
Đệ tử của Thiếu Lâm là nam nhân, có hai loại: đệ tử xuất gia và đệ tử
tục gia. Xuất gia đệ tử xuống tóc tu hành trong chùa, không can thiệp
việc giang hồ, tục gia đệ tử thì tản lạc khắp nơi, hành hiệp trượng
nghĩa có thể kết hôn hay làm bang chủ.
Các hệ phái của Thiếu Lâm QuyềnTrong Thiếu Lâm
Quyền có 3 hệ thống quyền thuật biểu hiện theo những kỹ thuật đặc trưng:
- Quyền Pháp Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam:
- La Hán Thập Bát Thủ
- La Hán Quyền
- Tiểu La Hán Quyền
- Đại La Hán Quyền
- Tiểu Hồng Quyền
- Đại Hồng Quyền
- Thông Tý Quyền
- Triều Dương Quyền
- Thất Tinh Quyền
- Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền
- Liên Hoa Quyền
- Pháo Chùy hay Pháp Trùy (Pháo Quyền)
- Tâm Ý Bả
- Tâm Ý Quyền
- Ngũ Hợp Quyền
- Khán Gia Quyền
- Ngũ Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc)
- Thái Tổ Trường Quyền
- Kim Cương Quyền
- ... ...
</li>
</li>
Bắc Thiếu Lâm:
Mê Tung Quyền
Nhị Lang Quyền
Thông Bối Quyền
Phách Quải Quyền
Phiên Tử Quyền
Quan Đông Quyền
Tra Quyền hay Soa Quyền
Đàm Thoái Quyền hay Đàn Thoái Quyền
Bát Cực Quyền
Đường Lang Quyền Bắc Thiếu Lâm
Ưng Trảo Quyền
Pháo Quyền
Hình Ý Quyền hay Lục Hợp Quyền của Thiếu Lâm Vy Đà Môn
Hoa Quyền hay Hóa Quyền của vua Khang Hy nhà Thanh sáng tạo
Địa Đàng Quyền
Binh Bộ Quyền của các võ quan thời nhà Minh sáng tạo
...
</li>
</li>
Nam Thiếu Lâm:
Thiếu Lâm Hồng gia
Lưu Gia
Lý Gia
Mạc Gia
Thái Gia
Thiếu Lâm Bạch Mi
Thiếu Lâm Vịnh Xuân
Thiếu Lâm Phật Gia Quyền
Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia.
Thiếu Lâm Đường Lang Quyền Nam Phái
Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền
Thiếu Lâm Quý Châu Quyền
...
</li>
</li>